TS. Phạm Hữu Giang
Trường Đại học Mỏ - Địa chất
Báo cáo đề cập đến trữ lượng than mỡ ở Việt Nam, nhu cầu sử dụng than mỡ ở Việt Nam hiện nay cũng như trong tương lai. Thực tế tuyển than mỡ ở Việt Nam, những ưu nhược điểm của sơ đồ công nghệ tuyển than ở xưởng tuyển than Phấn Mễ. Trong báo cáo cũng đề cập đến kết quả nghiên cứu tuyển than mỡ Thanh An - Điện Biên và tuyển lại sản phẩm than trung gian của máy lắng thuộc xưởng Tuyển than Phấn Mễ, nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng than mỡ, tiết kiệm tài nguyên và giảm thiểu ô nhiễm môi trường.
1. Trữ lượng than mỡ của Việt Nam
Tổng trữ lượng than mỡ ở Việt Nam tính đến năm 2005 khoảng 13.608.000 tấn, được chia làm hai vùng chính là vùng Thái Nguyên và vùng Tây Bắc. Vùng Thái Nguyên có trữ lượng 6.835.900 tấn và vùng Tây Bắc có trữ lượng 6.773.000 tấn.
Than mỡ vùng Thái Nguyên được chia làm hai khu, khu Bắc Làng Cẩm và khu Nam Làng Cẩm. Than mỡ vùng Tây Bắc phân bố rải rác trên diện rộng, tập trung vào ba khu vực chính: khu vực Điện Biên, Lai Châu, khu vực Sơn La, khu vực Hòa Bình- Ninh Bình.
Khu Bắc Làng Cẩm có trữ lượng 1.625.100 tấn và khu Nam Làng Cẩm có trữ lượng 3.233.200 tấn. Khu vực Điện Biên-Lai Châu có tổng trữ lượng 1.250.000 tấn gồm các mỏ: Thanh An, Keo Lôm, Tìa Mông. Khu vực Sơn La có trữ lượng 3.100.000 tấn gồm các mỏ: Tô Pan, Ke Lay, Mường Lựm, Quỳnh Nhai. Khu vực Hòa Bình-Ninh Bình có trữ lượng 2.423.000 tấn gồm các mỏ Đồi Hoa, Đoàn Kết, Bích Sơn, Đầm Đùn [1]. Theo dự báo nhu cầu sử dụng than mỡ của Việt Nam năm 2010 là 370.000 tấn và những năm sau 2015 là trên 3.000.000 tấn mỗi năm. Như vậy lượng than mỡ cần nhập khẩu của Việt Nam là rất lớn.
Xem chi tiết tại đây
Nguồn: Tuyển tập Báo cáo Hội nghị KHCN Tuyển khoáng toàn quốc lần III